Xuất chinh (trích Đoạn 2 “Chinh phụ ngâm”) Sau phút chia ly

Việt Nam / Lớp 7 » Đặng Trần Côn

Văn mẫu

Nội dung

25. Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền
Nước có chảy mà phiền khôn rửa
30. Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước dây dây lại dừng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San[1]
35. Múa gươm[2] rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử[3]
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba[4]
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
40. Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà lương[5] chia rẽ đường này
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi
45. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu[6]
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương[7]
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn đường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
50. Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
55. Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh
Chốn Hàm kinh[8] chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương[9] thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
60. Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
[1] Có câu hát “Tướng quân tam tiễn định Thiên San, tráng sĩ trường ca nhập Hán quan” (ba mũi tên của tướng quân lấy được núi Thiên Sơn, tráng sĩ hát dài mà kéo quân vào cửa ải Hán)
[2] Tức gươm Long Tuyền, tên một thanh kiếm báu
[3] Lâu Lan là một nước nhỏ ở Tây Vực, vua tên Toại giết sứ Hán. Chiêu đế sai Phó Giới Tử giả tiếng đi săn, lập mưu giết Toại.
[4] Mã Viện, đời Đông Hán, lĩnh chức Phục Ba tướng quân, từng đánh dẹp bọn rợ ở Man Khê.
[5] (Hà: sông, lương: cầu) ngày xưa tiễn đưa nhau thường đến chốn "cầu sông".
[6] Tức doanh Tế Liễu. Vua Hán Văn Đế đến doanh Tế Liễu là nơi đồn quân của tướng Chu Á Phu để khao thưởng quân sĩ.
[7] Tên đất cũ đời Tần, thuộc tỉnh Thiểm Tây.
[8] Kinh đô Hàm Dương nhà Tần, ở tỉnh Thiểm Tây.
[9] Chỗ hợp lưu sông Tiêu và sông Tương ở tỉnh Hồ Nam.
Nguồn: Đoàn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm diễn ca, Nxb Văn học, 2007