Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Việt Nam / Lớp 11 » Nguyễn Đình Chiểu

Nội dung

Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:
Cui cút[1] làm ăn;
Riêng lo[2] nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung[3];
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ[4].

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên[5], tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc[6] phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên[7] vấy vá[8] đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong[9] che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư[10] đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu[11];
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình[12];
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ[13].

Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ[14], theo dòng[15] ở lính diễn binh[16];
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ[17].

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu[18] bầu ngòi[19];
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu[20] nón gõ[21].

Hoả mai[22] đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà[23] ma ní[24] hồn kinh;
Bọn[25] hè trước, lũ[26] ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm[27] vội bỏ.

Một chắc sa trường rằng chữ hạnh[28], nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ[29].

Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình[30], già trẻ hai hàng luỵ[31] nhỏ.

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh[32] đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực[33] theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi[34] cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tà đạo[35], quăng vùa hương[36], xô bàn độc[37], thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái[38], về theo tổ phụ[39] cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di[40] rất khổ.

Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh[41] năm canh ưng[42] đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa[43] một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc[44] trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ[45] trước ngõ.

Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ[46].

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng[47] đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng[48] lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân[49];
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ[50].
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
[1] Cui cút làm ăn có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.
[2] Có bản chép là "Toan lo".
[3] Chỗ đánh nhau.
[4] Làng xóm (có bản chép: làng hộ).
[5] Thứ mộc hình tròn đan bằng mây dùng để đỡ mũi giáo đối phương lúc xung trận.
[6] Lấy ở câu “phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh”, nghĩa gốc là nói sự hồi hộp lo lắng, nghe tiếng gió thổi hạc kêu, thấy cây cỏ cũng tưởng là giặc đuổi đánh. Ở đây, "tiếng phong hạc" có nghĩa là tin kẻ địch đến.
[7] Tanh hôi, chỉ bọn thực dân Pháp.
[8] Dây dính bậy bạ.
[9] Giống cây dây leo có nhiều râu (tay leo). Ở đây chỉ những lều và buồm vải có nhiều dây của quân Pháp.
[10] Cỗ xe và chữ viết, do chữ “xa đồng quỹ, thư đồng văn”, nghĩa là xe cộ cùng một đường (quỹ: dấu xe đi), sách viết cùng một thứ chữ, ý nói sự thống nhất hoàn toàn.
[11] (lấy tích Lưu Bang cướp ngôi nhà Tần) đến chiếm cướp. Cả vế "một mối... đuổi hươu" có nghĩa: đất nước ta là một khối thống nhất vĩ đại, không thể nào để kẻ nào đến chiếm cướp.
[12] Chém cá kình.
[13] Bắt hổ.
[14] Các loại đơn vị quân đội thời phong kiến.
[15] Dòng dõi cha ông.
[16] Luyện tập việc binh.
[17] (chiêu: vời, mời; mộ: cầu, tìm) tuyển trên cơ sở tự nguyện.
[18] Bao đựng kiếm.
[19] Bầu đựng ngòi thuốc nổ.
[20] Dao dài lưỡi.
[21] Nón của người lính ngày xưa.
[22] Mồi lửa để bắn súng (ngày xưa).
[23] Theo tiếng Malaysia là cảnh sát.
[24] Lính của Tây Ban Nha mộ ở Philippin (Mani: thủ đô Philippin).
[25, 26] Bọn, lũ: ngày trước chỉ có nghĩa là nhiều người, ít có nghĩa là coi thường. Ở đây là chỉ các nghĩa quân.
[27] Xác của con người trần tục.
[28] Hạnh là may, ý nói may được cứu sống. quy: về, ở đây là chết.
[29] Một nghĩa sĩ thời Chiến Quốc không thoả được chí mình, trước khi chết, dặn con treo gươm trên mộ để tỏ chí khí.
[30] Thuộc Cần Giuộc.
[31] Lệ (nước mắt).
[32] Làm lính.
[33] (hiệu: hết sức) làm hết sức để chuộc tội, hoặc có tội phải đi làm những việc nguy hiểm để chuộc tội.
[34] (tài: trồng cây, bồi: vun thêm) vun đắp.
[35] Đạo bất chính, ở đây là chỉ đạo Giatô. Bấy giờ bọn cướp nước lợi dụng đạo Giatô để chia rẽ nhân dân ta và mượn cớ đi truyền đạo để do thám. Các chí sĩ của ta chưa nhận rõ đâu là kẻ theo địch, đâu là người theo đạo nên chủ trương bài đạo nói chung.
[36] Bình hương.
[37] Bàn thờ tổ tiên.
[38] Tinh thần chống lại kẻ mình căm giận.
[39] Ông nội, người sinh ra cha. Ở đây chỉ tổ tiên, ông cha nói chung.
[40] Mọi rợ, ở đây chỉ bọn giặc Pháp.
[41] Một ngôi chùa ở Chợ Lớn (có bản chép: Tôn Hạnh).
[42] Phải chịu.
[43] Đồn Pháp.
[44] Phận mỏng.
[45] Vất vơ, vất vưởng.
[46] Chữ Hán là "xích tử", trẻ con mới đẻ còn đỏ hỏn. Nghĩa bóng là nhân dân (cần được chăm sóc như chăm sóc đứa trẻ mới đẻ).
[47] Được, muốn được.
[48] Phải hiểu là nước mắt khóc người anh hùng.
[49] Dân của trời.
[50] Đất của vua.
1861

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đơn quận Pháp ở Cần Giuộc đêm 16 – 12 – 1861. Nghĩa quân giết được tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa, làm chủ đồn hai ngày rồi bị phán công và thất bại. Nghĩa quân hi sinh khoáng 20 người. Trong bối cảnh cuộc chiến đấu không cân sức những ngày đầu chống Pháp, khi toàn dân tộc đang quyết một lòng thà chết vinh còn hơn sống nhục, sự hi sinh vì đại nghĩa này quả có sức cổ vũ và khích lệ to lớn. Bởi thế, bài văn ngay lập tức được truyền tụng khắp nơi trong nước, làm xúc động lòng người. Có thể nói lần đầu tiên trong văn học dân tộc, người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm đã được dựng một bức tượng đài nghệ thuật bất tử.

Văn tế là một loại văn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản: kể lại cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Âm hưởng chung của bài văn tế là bi thương, nhưng sắc thái biểu cảm ở mỗi bài có thể khác nhau. Có bài chỉ thuần tuý là một tiếng khóc (Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái) nhưng cũng có bài mang tính sử thi bi tráng (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Chân Trinh của Phan Bội Châu). Đặc biệt, có khi văn tế còn được viết trong những hoàn cảnh khác, nhằm mục đích khác (ví dụ Tú Xương làm Văn tế sống vợ với giọng hài hước, dí dỏm, hay các nhà văn cách mạng sau này có thể làm văn tế bọn thực dân, đế quốc để đả kịch, châm biếm). Văn tế có thể được viết theo nhiều thể: văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú,… (Bài văn tế này viết theo thể phú Đường luật có vần, có đối). Giọng điệu văn tế nói chung là lâm li, thống thiết, sử dụng nhiều thán từ và những từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm mạnh. Bố cục của bài văn tế thường có bốn đoạn: đoạn mở đầu (lung khởi) luận chung về lẽ sống chết, thường khởi xướng bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!, đoạn thứ hai (thích thực) kể công đức, phẩm hạnh, cuộc đời của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa; đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đối vời người đã chết; đoạn thứ tư (kết) bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện của người đứng tế.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tố quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghê thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.

Tài liệu tham khảo:
1. Thái Bạch, Thi văn Quốc cấm thời thuộc Pháp, NXB Khai Trí, 1968
2. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, NXB Ðại học & Trung học chuyên nghiệp, 1971
3. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968
4. Trích bản Nôm viết tay của cụ Lê Công Cẩn sao chép bản gốc của cụ Đồ Chiểu
5. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải phóng, TP Hồ Chí Minh, 1976