Ilya Ehrenburg I. Ê-ren-bua

Nga / Lớp 6

Tác phẩm

Tác giả

Ilya Grigoryevich Ehrenburg (Илья Григорьевич (Гиршевич) Эренбург, 27 tháng 1 năm 1891 – 31 tháng 8 năm 1967) sinh ở Kiev trong một gia đình Do Thái giàu có. Năm 1895 gia đình chuyển đến Moskva. Ehrenburg học ở trường Gymnazy cùng với Nikolai Ivanovich Bukharin. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1905. Cuối năm 1908 sang Pháp hoạt động văn học, ông kết bạn với Picasso, Louis Aragon, Alexis Leger (Saint-John Perse),... và in một số tập thơ. Các năm 1914-1917 ông làm phóng viên cho một số tờ báo. Cuối năm 1919 cùng với Osip Mandelstam đi về vùng Cremia, sống ở nhà Maximilian Alexandrovich Voloshin. Bị bắt nhưng nhờ sự can thiệp của Bukharin nên được trả tự do. Từ năm 1921 đến năm 1924 sống ở Berlin, Đức.

Thời kỳ Nội chiến ở Tây Ban Nha (1936-1939), Ehrenburg làm phóng viên chiến trường của báo Izvestya, sau khi những người cộng hoà thất bại, ông sang Pháp. Năm 1940 ông trở về Liên Xô. Thời kỳ chiến tranh Vệ quốc ông làm phóng viên của các tờ báo Sự thật (Правда), Tin tức (Известия), Ngôi sao đỏ (Красная звезда). Từ năm 1942 ông tham gia Uỷ ban Do Thái chống phát xít rất tích cực và đã thu thập được nhiều tài liệu về cuộc tàn sát chủng tộc đối với người Do Thái (Holocaust).

Trong mục trích các bài thơ của Ehrenburg có bài thơ Hãy giết nổi tiếng của ông. Ehrenburg viết bài thơ này trong những ngày tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh Vệ quốc. Cũng trong thời kỳ này ông viết bài Hãy giết người Đức đăng trên báo Ngôi sao đỏ ngày 24 tháng 7 năm 1942. Nguyên cớ của bài báo là cuộc tấn công của quân Đức vào vùng sông Đông, hai tuần trước mệnh lệnh số 227 của Tổng tư lệnh Stalin: “Không lùi một bước!” ra đời, theo lời của tác giả, là những bức thư từ Đức mà người ta tìm thấy trong túi áo của những lính Đức tử trận về ý định của người Đức “biến dân Nga thành những kẻ nô lệ”. Bài viết này sau đó đã bị dư luận nước ngoài chỉ trích và trở thành đối tượng của nhiều cuộc tranh luận.

Ilya Ehrenburg là đại biểu tối cao Xô Viết tối cao Liên Xô các nhiệm kỳ 3 – 7. Từ năm 1950 là Phó chủ tịch Hội đồng hoà bình Thế giới. Hai lần ông được tặng Giải thưởng Stalin (1942, 1948). Năm 1952 được tặng Giải thưởng Lenin vì sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc. Ông mất ngày 31 tháng 8 năm 1967 ở Moskva.

Tác phẩm:

- Cầu nguyện cho nước Nga (tiểu thuyết, 1918)
- Cuộc phiêu lưu khó tin của Julio Jurenito (tiểu thuyết, 1922)
- Cuộc đời và cái chết của Nikolai Kurbov (tiểu thuyết, 1923)
- Mối tình của Jeanne Ney (tiểu thuyết, 1924)
- Mùa hè 1925 (tiểu thuyết, 1926)
- Paris sụp đổ (tiểu thuyết, 1941)
- Lòng yêu nước (tuỳ bút, 1942)
- Làn sóng thứ chín (tiểu thuyết, 1950)
- Con người, năm tháng, cuộc đời (hồi ký, 1961 - 1965)
- Biên niên sử của sự can đảm (tiểu thuyết, 1974)