Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới bài 43)

Việt Nam / Lớp 10 » Nguyễn Trãi

Nội dung

Rồi[1] hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục[2] đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ[3],
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương[4].
Lao xao chợ cá làng ngư phủ[5],
Dắng dỏi[6] cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có[7] Ngu cầm[8] đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi[9] phương.
[1] Rồi: ở đây là rỗi rãi
[2] Lục: màu xanh; hoè lục: màu xanh cây hoè; tán rợp giương: tán giương lên che rợp.
[3] Thức (từ cổ): màu vẻ, dáng vẻ. Ý cả câu thơ: cây thạch lưu ở hiên nhà đang phun màu đỏ.
[4] Tiễn mùi hương: ngát mùi hương (tiễn: từ Hán Việt, có nghĩa là dư ra). Ý cả câu thơ: sen hồng trong ao đã ngát mùi hương.
[5] Làng ngư phủ: làng chài lưới.
[6] Dắng dỏi (từ cổ): có nghĩa là inh ỏi. Cầm ve: tiếng ve kêu như tiếng đàn. Lầu tịch dương: lầu (nhà cao) lúc mặt trời sắp lặn.
[7] Dẽ có: lẽ ra nên có.
[8] Ngu cầm: thần thoại Trung Quốc kể rằng hai triều vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai triều đại lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc. Riêng vua Ngu Thuấn có khúc hát Nam phong, trong đó có câu: “Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề” (Gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của). Ngu cầm là đàn của vua Ngu Thuấn. Ý cả câu: Hãy để cho ta có đàn của vua Thuấn để đàn một khúc Nam phong.
[9] Đòi: nhiều.
Quốc âm thi tập gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn. Với tập thơ này, Nguyễn Trãi là một trong những người đặt nền móng và mở đường chó sự phát triển của thơ tiếng Việt. Về nội dung, Quốc âm thi tập phản ánh vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi: người anh hùng với lí tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân; nhà thơ với tình yêu thiên nhiên, quê hương, con người, cuộc sống... Về nghệ thuật, thể thơ thất ngôn Đường luật của Trung Quốc đã được Nguyễn Trãi sử dụng thuần thục như một thể thơ dân tộc, có khi chen vào chỗ thích hợp một số câu lục ngôn (câu sáu chữ).

Quốc âm thi tập được chia thành bốn phần: Vô đề, Môn thì lệnh (Thời tiết), Môn hoa mộc (Cây cỏ), Môn cầm thú (Thú vật). Phần Vô đề gồm toàn thơ không có tựa đề, nhưng được sắp xếp thành một số mục: Ngôn chí (Nói lên chí hướng), Mạn thuật (Kể ra một cách tản mạn), Tự thán (Tự than), Tự thuật (Tự nói về mình), Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình)... Mục Bảo kính cảnh giới có 61 bài, Cảnh ngày hè là bài số 43.

Nguồn: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II), NXB Văn học, Hà Nội, 1976